Cây trâm bầu thường được sử dụng trong y học dân gian để điều trị nhiều bệnh như nhiễm sán, giun kim, giun đũa, sốt rét rừng, phong thấp, tiêu chảy và giảm đau bụng.
Cây trâm bầu thường được sử dụng trong y học dân gian để điều trị nhiều bệnh như nhiễm sán, giun kim, giun đũa, sốt rét rừng, phong thấp, tiêu chảy và giảm đau bụng.
Cây trâm bầu, được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau như săng kê, chưng bầu, chưn bầu, tim bầu, song re,… thường được nhân dân sử dụng để điều trị nhiều loại bệnh như giun sán, giun kim, tiêu chảy, phong thấp và sốt rét rừng. Nghiên cứu khoa học cũng đã chỉ ra rằng, hạt của cây trâm bầu không chỉ có tác dụng lợi mật, kháng khuẩn, lợi tiểu mà còn có khả năng ức chế tế bào ung bướu.
Cây trâm bầu đóng góp nhiều cho ngành y học
Theo PGS.TS Tạ Thị Tĩnh – giảng viên khoa Y học cổ truyền, Trường Đại học Lương Thế Vinh cho biết Trâm bầu thường được mô tả là một cây bụi hoặc cây gỗ nhỏ, có chiều cao dao động từ 2 đến 10 mét, trong một số trường hợp, cây có thể cao hơn đến 12 mét khi được phát triển trong điều kiện lý tưởng. Thân cây thường có nhiều cành ngắn, với cành non có 4 cạnh và mép lá có rìa mỏng. Lá mọc đối xứng, cuống ngắn, có hình dáng dài hình trứng với gốc thuôn và đầu hơi nhọn, trên cả hai mặt lá đều có lông nhưng mặt dưới lại nhiều hơn.
Cây trâm bầu có hoa thường mọc thành cụm ở nách lá, mỗi cụm chứa nhiều hoa nhỏ có màu vàng. Quả của cây có kích thước lớn, màu xanh, có 4 cánh mỏng và bên trong chứa nhiều hạt hình thoi.
Cả lá, rễ và hạt của cây trâm bầu đều được sử dụng trong việc làm thuốc chữa bệnh. Cây trâm bầu có nguồn gốc chủ yếu từ các nước Đông Dương như Campuchia, Lào và Việt Nam. Nó thường mọc ở các vùng đất phèn, nước mặn và cả vùng đất nước ngọt. Thường người dân trồng cây trâm bầu để sử dụng cho nhu cầu lấy củi, và chỉ một số ít nơi trồng cây này để sử dụng làm dược liệu.
Lá và rễ của cây có thể được thu hái quanh năm, trong khi quả và hạt thường được thu hái vào tháng 1 và tháng 2 hàng năm. Dược liệu có thể được sử dụng tươi hoặc phơi khô để sử dụng dần. Để bảo quản, nên để dược liệu ở nơi khô ráo, thoáng mát và tránh xa ánh nắng mặt trời trực tiếp và môi trường ẩm ướt.
Kết quả phân tích cho thấy rằng, hạt của cây trâm bầu chứa nhiều hợp chất như acid oxalic tự do, oxalate calcium, acid béo, tannin và dầu béo với tỷ lệ khoảng 12%. Ngoài ra, trong phân tích acid béo, đã xác định được hạt chứa acid linoleic khoảng 2.31% và acid palmitic khoảng 5.91%.
Theo nghiên cứu dược lý hiện đại:
Tác dụng lợi mật: Nghiên cứu đã chỉ ra rằng nước sắc từ lá cây trâm bầu có thể kích thích tiết mật, tăng cảm giác thèm ăn, và cải thiện vị giác, giúp tăng cường quá trình tiêu hóa.
Tác dụng lợi tiểu: Nước sắc từ cây trâm bầu có khả năng tăng bài tiết nước tiểu chậm nhưng kéo dài, giúp làm sạch cơ thể và hỗ trợ trong việc điều trị các vấn đề liên quan đến tiết niệu.
Tác dụng ức chế tế bào ung bướu: Lá và hạt của cây trâm bầu được nghiên cứu và cho thấy có khả năng ức chế sự phát triển của các tế bào ung bướu trong cơ thể, cũng như ngăn chặn sự hình thành các gốc tự do gây hại cho gan.
Tác dụng chống khuẩn: Khả năng đối kháng với một số loại vi khuẩn gram âm gây nhiễm trùng âm đạo và một số vi khuẩn kháng thuốc kháng sinh được chiết xuất từ hạt cây trâm bầu.
Tác dụng hỗ trợ điều trị nhiễm HIV: Chiết xuất từ dược liệu có thể ức chế một enzyme quan trọng trong quá trình nhân đôi của virus HIV-1, làm giảm sự phát triển của virus trong cơ thể.
Hiện nay, cây trâm bầu được sử dụng nhiều trong các bài thuốc điều trị giun kim và giun đũa. Ngoài ra, thảo dược này đang được nghiên cứu để áp dụng trong các sản phẩm hỗ trợ phòng ngừa và điều trị ung thư.
Hạt trâm bầu cũng được sử dụng trong việc tổng hợp các chất tẩy rửa và làm nguyên liệu cho ngành công nghiệp xà phòng.
Thường thì cây trâm bầu được sử dụng dưới dạng bột, và liều dùng thông thường là từ 15 đến 20 gram mỗi ngày.
Cây trâm bầu hỗ trợ điều trị bệnh lý về gan
Chữa giun kim và giun đũa:
Chuẩn bị: chuối chín và hạt trâm bầu.
Thực hiện: Nướng hạt trâm bầu, sau đó kẹp vào chuối chín và nhai nuốt. Liều dùng cho trẻ em từ 7 đến 14 gram (khoảng 5 đến 10 hạt), và cho người lớn từ 14 đến 20 gram (khoảng 10 đến 15 hạt).
Trà trâm bầu giúp nhuận gan:
Chuẩn bị: Hạt trâm bầu 20 – 30 gram.
Thực hiện: Nấu nước uống và sử dụng như trà trong suốt ngày.
Tác dụng tẩy giun từ trâm bầu và lá mơ:
Chuẩn bị: Bột nếp 100 gram, bột từ hạt trâm bầu và lá mơ mỗi thứ 50 gram.
Thực hiện: Trộn đều bột dược liệu với bột nếp và nước, sau đó hấp cho chín. Dùng mỗi sáng trước khi ăn trong 4 – 5 ngày liên tục để tiêu diệt giun trong đường ruột.
Điều trị cổ trướng và xơ gan:
Chuẩn bị: Lá cối xay, lá trâm bầu, vỏ cây vọng cách và vỏ cây quao nước mỗi thứ 50 gram, quả dứa dại và thân cây ráy gai mỗi thứ 200 gram.
Thực hiện: Sắc uống, mỗi ngày dùng 1 thang.
Khi sử dụng cây trâm bầu cho đối tượng phụ nữ mang thai và đang cho con bú thì cần nên thận trọng.
Nên tham khảo ý kiến của bác sĩ trước khi sử dụng kết hợp với các loại thuốc, đặc biệt là thuốc tác động đến gan và thận, thuốc trị nhiễm giun.
Cây trâm bầu là một loại dược liệu quý và đang được nghiên cứu để ứng dụng trong các chế phẩm chữa bệnh. Tuy nhiên, trước khi sử dụng, bạn nên thảo luận với bác sĩ để biết rõ về liều lượng và thời gian sử dụng phù hợp.
nguồn: Trường Cao đẳng Y dược Pasteur