Trúc diệp thạch cao thang là một phương thuốc nổi tiếng trong Y học cổ truyền, có công năng thanh nhiệt, sinh tân, dưỡng vị, điều hòa tràng vị.
Trúc diệp thạch cao thang là một phương thuốc nổi tiếng trong Y học cổ truyền, có công năng thanh nhiệt, sinh tân, dưỡng vị, điều hòa tràng vị.
Bài thuốc thường được sử dụng trong giai đoạn sau khi sốt cao, cơ thể tuy hết tà khí nhưng âm dịch bị hao tổn, biểu hiện bằng khát nước, miệng khô, lưỡi đỏ ít rêu, môi nứt nẻ.
Theo các tài liệu y văn, bài thuốc này còn phù hợp cho những trường hợp vị âm hư, vị hỏa thượng nghịch, người bệnh cảm thấy nóng trong, ăn nhanh đói, khát nhiều, thậm chí ứng dụng trong hội chứng tiêu khát (đái tháo đường) ở mức độ nhẹ. Đây cũng là một trong những phương thuốc thường được các Bác sĩ Y học cổ truyền ứng dụng trong thực hành lâm sàng.
Trúc diệp thạch cao thang bao gồm nhiều vị thuốc quen thuộc trong Y học cổ truyền, kết hợp theo nguyên tắc quân – thần – tá – sứ:
Trúc diệp (4 – 12g): Thanh nhiệt, trừ phiền, lợi tiểu.
Thạch cao (4 – 12 lạng): Tả vị hỏa, thanh nhiệt mạnh, chỉ khát.
Mạch môn (8 – 16g): Dưỡng âm, sinh tân dịch, nhuận táo.
Nhân sâm hoặc Đảng sâm (4 – 16g): Ích khí, bổ vị, giúp khôi phục sức khỏe.
Bán hạ (8 – 12g): Hòa vị, giáng nghịch, giảm nôn.
Gạo sống (40g): Điều hòa vị khí, bảo vệ dạ dày.
Cam thảo (4 – 8g): Hòa hoãn các vị thuốc, dưỡng khí.
Bài thuốc được sắc uống ngày một thang, chia làm hai lần. Công dụng chính là:
Thanh nhiệt: Giúp cơ thể giải nhiệt sau khi bị sốt, trừ cảm giác nóng trong.
Sinh tân, dưỡng vị: Tăng cường dịch vị, giảm tình trạng khát nước, khô môi.
Chỉ khát, hòa vị: Giúp điều hòa chức năng tiêu hóa, chống nôn, ăn uống dễ tiêu.
Bài thuốc có thể chia thành 4 nhóm chính theo công năng:
Thanh nhiệt, tả hỏa: Trúc diệp, Thạch cao.
Ích khí, dưỡng âm, sinh tân: Nhân sâm, Mạch môn.
Hòa vị, giáng nghịch: Bán hạ.
Điều hòa vị khí: Gạo sống, Cam thảo.
Sự phối hợp này tạo nên tác động kép: vừa loại bỏ tà nhiệt, vừa phục hồi chính khí và dịch âm – điều mà Y học cổ truyền coi là “công bổ kiêm thi” (vừa tả vừa bổ).
Trúc diệp thạch cao thang thường được dùng trong các trường hợp:
Sau khi sốt cao, tà nhiệt đã lui nhưng âm dịch chưa hồi phục.
Chứng vị âm hư, vị hỏa thịnh, gây khát nhiều, miệng khô, lưỡi đỏ nứt nẻ.
Hỗ trợ trong hội chứng tiêu khát (đái tháo đường) thể vị hỏa vượng.
Một số bệnh lý do thử nhiệt (nắng nóng) gây hao tổn tân dịch.
Đây cũng là một bài thuốc thường được Bác sĩ Y học cổ truyền chỉ định nhằm phục hồi chức năng tiêu hóa và điều hòa âm dương trong cơ thể.
Theo Tiến sĩ Nguyễn Xuân Xã – giảng viên ngành Bác sĩ Y học cổ truyền, Trường Đại học Lương Thế Vinh, Trúc diệp thạch cao thang là minh chứng rõ ràng cho nguyên tắc điều trị “thanh nhiệt mà không thương âm, bổ khí mà không trở ngại tà”.
Ông nhấn mạnh: “Trong điều trị Y học cổ truyền, nếu chỉ thanh nhiệt mạnh mà quên dưỡng âm, cơ thể dễ rơi vào trạng thái tổn thương dịch. Ngược lại, nếu chỉ bồi bổ mà không trừ nhiệt, tà khí còn sót lại sẽ sinh ra biến chứng. Trúc diệp thạch cao thang chính là sự dung hòa tuyệt vời giữa hai yếu tố này”.
Khi vị khí, vị âm không đủ mà vị nhiệt không rõ rệt, có thể bỏ Thạch cao, thêm Thanh hao tươi, Thiên hoa phấn để sinh tân dịch.
Khi có biểu hiện khát nhiều, đái nhiều, nghiêng về thận âm hư, có thể bỏ Thạch cao, thêm Hoàng tinh, Sinh địa, Thục địa, Sơn thù nhục để dưỡng thận, sinh tân.
Trong bối cảnh ngày nay, Trúc diệp thạch cao thang không chỉ được ứng dụng trong phục hồi sức khỏe sau sốt mà còn có tiềm năng hỗ trợ điều trị bệnh lý rối loạn chuyển hóa như đái tháo đường. Đây là bài thuốc tiêu biểu của Y học cổ truyền, thể hiện tư tưởng kết hợp bổ – tả hài hòa, mang tính kế thừa và giá trị thực tiễn cao, được nhiều Bác sĩ Y học cổ truyền đánh giá cao và tiếp tục vận dụng trong thực hành lâm sàng hiện đại.