Cây ba đậu là dược liệu quý trong đông y với nhiều công dụng chữa bệnh nhưng chứa độc tính cao. Việc sử dụng vị thuốc này đòi hỏi sự thận trọng, tuân thủ đúng cách bào chế và liều lượng để đảm bảo an toàn.
Cây ba đậu là dược liệu quý trong đông y với nhiều công dụng chữa bệnh nhưng chứa độc tính cao. Việc sử dụng vị thuốc này đòi hỏi sự thận trọng, tuân thủ đúng cách bào chế và liều lượng để đảm bảo an toàn.
Cây ba đậu là một loại cây gỗ nhỡ, cao từ 3 – 6m, cành nhẵn. Lá mọc so le, có hình trứng, đầu nhọn, dài khoảng 6 – 8cm, rộng 4 – 5cm, mép có răng cưa nhỏ. Cuống lá mảnh, chỉ dài 1 – 2cm.
Hoa của cây mọc thành chùm ở đầu cành, dài từ 10 – 20cm. Hoa đực mọc ở phía trên, hoa cái mọc ở phía dưới. Quả cây ba đậu có màu vàng nhạt, khi chín sẽ tự tách thành ba mảnh vỏ. Hạt ba đậu hình trứng, dài khoảng 10mm, rộng 4 – 6mm, có lớp vỏ cứng màu nâu xám.
Theo TS Lê Xuân Hùng – bác sĩ, giảng viên khoa Y học cổ truyền Trường Đại học Lương Thế Vinh chia sẻ, hạt ba đậu là bộ phận thường được dùng làm thuốc. Ngoài ra, rễ và lá của cây cũng có thể được sử dụng nhưng ít phổ biến hơn.
Theo đông y, ba đậu có vị cay, tính nóng và có độc, quy vào kinh vị và đại tràng. Vị thuốc này có tác dụng ôn trung trừ hàn, phá tích, trục đờm, hành thủy, tiêu thũng. Các bài thuốc từ cây ba đậu thường được dùng để chữa đầy bụng, đau tức ngực, sốt rét, tắc nghẽn ruột, thấp khớp, thậm chí cả rắn cắn.
Một số hợp chất trong hạt ba đậu bao gồm: Stearin, Palmatin, Tiglic, Protein, Alcaloid, Croitin… Đây là những thành phần tạo nên dược tính mạnh nhưng đồng thời cũng gây độc nếu lạm dụng.
Trong nghiên cứu hiện đại, nước sắc từ hạt ba đậu có khả năng ức chế tụ cầu vàng, trực khuẩn mủ xanh và một số loại vi khuẩn khác. Khi sử dụng với liều nhỏ, ba đậu còn có tác dụng giảm đau. Tuy nhiên, do độc tính cao, dược liệu này chỉ được sử dụng trong phạm vi hẹp và cần có sự hướng dẫn của thầy thuốc.
Người xưa đã sáng tạo nhiều cách bào chế hạt ba đậu để giảm bớt độc tố:
Hạt giã nát, trộn với dầu mè và rượu, nấu cho cạn rồi nghiền thành cao.
Bóc vỏ lấy nhân, gói trong giấy bản, nghiền nát cho dầu ngấm ra ngoài, phần bã còn lại gọi là ba đậu sương.
Hạt bỏ vỏ, giã nát, ép lấy dầu bằng cách thay giấy liên tục cho đến khi không còn thấm dầu, sau đó sao vàng hoặc sao đen thành hắc ba đậu.
Trong quá trình bào chế, phải đặc biệt cẩn thận vì dầu ba đậu rất nóng, có thể gây rộp da nếu dính vào tay.
Trị bụng căng đầy, ngực đau, táo bón: 2 hạt ba đậu (bỏ vỏ, rang vàng) kết hợp 2 hạt hạnh nhân (đập dập), sắc với nước nóng uống. Khi đã đi tiêu được thì dừng thuốc.
Chữa ăn không tiêu, đại tiện bí: Hạt ba đậu nấu cùng rượu trong nhiều giờ, sau đó vo thành viên nhỏ bằng hạt đậu. Uống 1 – 2 viên cùng nước ấm.
Điều trị tích trệ: Hạt ba đậu 40g, hoàng bá 120g, cáp phấn 80g, tán bột làm hoàn, mỗi lần uống 5 viên với nước ấm.
Chữa lở ngứa, hắc lào: Dùng 3 hạt ba đậu giã nát, bọc vải rồi xát vào vùng da bị bệnh, ngày làm 2 – 3 lần.
Chữa viêm niêm mạc dạ dày cấp, đau bụng: Ba đậu sương 1g, bối mẫu 3g, cát cánh 3g, tán bột. Mỗi lần uống khoảng 0,2g với nước ấm.
Các bài thuốc này thường được áp dụng trong đông y, nhưng cần có sự chỉ định và giám sát chặt chẽ của thầy thuốc để đảm bảo an toàn.
Cây ba đậu là một vị thuốc đặc biệt trong đông y, vừa có tác dụng mạnh mẽ trong điều trị bệnh, vừa tiềm ẩn nhiều rủi ro do độc tính cao. Chính vì vậy, việc sử dụng cây ba đậu cần hết sức thận trọng, tuân thủ đúng liều lượng và cách bào chế. Người bệnh tuyệt đối không tự ý dùng mà nên tham khảo ý kiến thầy thuốc có chuyên môn để vừa tận dụng được công dụng chữa bệnh, vừa hạn chế tối đa nguy cơ ngộ độc.