Me đất là một loài cây thông dụng thường thấy ở vườn nhà hoặc bờ ruộng khắp các tỉnh thành của nước ta. Ngoài công dụng dùng làm rau ăn (nấu canh chua), cây này còn giúp giải nhiệt, có tác dụng kháng khuẩn, kháng viêm, kích thích tiêu hóa và hạ huyết áp.
Me đất hay còn gọi là Chua me đất hoa vàng, là một loại cây mọc hoang khắp, thường ở chỗ đất ẩm mát trong vườn, ở bờ ruộng và các bãi đất hoang. Nhân dân thường dùng cây tươi làm rau ăn và làm thuốc, ít khi phơi khô.
Chua me đất hoa vàng còn có tên khác là tạc tương thảo, toan tương thảo, ba chìa, tam diệp toan… Là cây thảo, sống nhiều năm, mọc bò sát đất. Thân mảnh, thường có màu đỏ nhạt, hơi có lông. Lá có cuống dài mang 3 lá chét mỏng hình tim. Hoa mọc thành tán gồm 2-3 hoa, có khi 4 hoa màu vàng. Quả nang thuôn dài, khi chín mở bằng 5 van, tung hạt đi xa. Hạt hình trứng, màu nâu thẫm, dẹt, có bướu.
Theo y học cổ truyền, Me đất có vị chua, tính mát, không gây độc, giúp giải nhiệt, có tác dụng kháng khuẩn, kháng viêm, kích thích tiêu hóa và hạ huyết áp.
Toàn cây được sử dụng làm thuốc giải nhiệt, điều trị xích bạch đới, sát trùng, ứ huyết do ngã hay bị đánh đập.
Trong đời sống hàng ngày, cây được thu hái rồi sắc uống trị lỵ hoặc hạ sốt.
Ở Ấn Độ, Phillipin, dược liệu này được dùng để trị bệnh Scorbut hoặc thuốc thông tiểu, chữa viêm đường tiểu, viêm tai, mụn cóc, u lồi ở da. Nước sắc lá cũng dùng để súc miệng. Ở Nepal, giã lá để xoa bóp chỗ bị bong gân, sưng tấy hoặc sát trùng vết thương, cầm máu.
Ngoài ra, cây còn được sử dụng để đánh bóng các vật dụng bằng đồng trong gia đình.
TS Tạ Thị Tĩnh – giảng viên khoa Y học cổ truyền trường Đại học Lương Thế Vinh chia sẻ một số công dụng chữa bệnh của vị thuốc này như sau, mời bạn đọc tham khảo:
Chữa ho gà: Lá chua me đất hoa vàng 10g, rễ chanh 12g, lá hẹ 8g, lá xương sông 8g, hạt mướp đắng 5g, phèn phi 2g, sắc lấy nước đặc, thêm đường uống.
Hỗ trợ điều trị tăng huyết áp: Chua me đất hoa vàng 30g, hạ khô thảo 10g, cúc hoa vàng 15g, sắc uống ngày 1 lần.
Sốt cao, trằn trọc, khát nước: Dùng chua me đất hoa vàng một nắm giã nát, cho thêm nước vào vắt lấy nước cốt uống.
Trị viêm họng, họng sưng đau: Chua me đất hoa vàng 50g, muối 2g, hai thứ nhai nuốt từ từ.
Chấn thương, bị ngã sưng đau: Chua me đất hoa vàng một nắm to, chưng nóng rồi xoa bóp vào chỗ bị thương.
Đại, tiểu tiện không thông: Chua me đất hoa vàng, mã đề, mỗi thứ một nắm (khoảng 20g), rửa sạch, thêm chút đường, giã nát, vắt lấy một chén nước cốt uống.
Ho do thử nhiệt: Chua me đất hoa vàng 40g, rau má 40g, lá xương sông 20g, cỏ gà 20g. Các vị thuốc đều dùng tươi, rửa sạch, giã nhỏ, vắt lấy nước, thêm 1 thìa đường, đun sôi lại, chia 3 lần uống trong ngày.
Hỗ trợ điều trị viêm gan, vàng da: Chua me đất hoa vàng 30g, sắc lấy nước chia vài lần uống trong ngày. Hoặc: Chua me đất 30g, thịt lợn nạc 30g, nấu thành canh, ăn cả nước lẫn cái.
Lưu ý: Trong thân và lá chua me đất có axit oxalic và nhất là oxalat kali với hàm lượng cao có thể tạo ra sỏi oxalat trong bàng quang mà sinh bệnh sỏi. Do đó, những người đã bị sỏi thận không nên dùng. Cần thận trọng với phụ nữ có thai.
Me đất là một loài cây thông dụng thường thấy ở vườn nhà hoặc bờ ruộng khắp các tỉnh thành của nước ta. Ngoài công dụng dùng làm rau ăn (nấu canh chua), cây này còn giúp giải nhiệt, có tác dụng kháng khuẩn, kháng viêm, kích thích tiêu hóa và hạ huyết áp.
Trong y học cổ truyền, nhiều vị thuốc tự nhiên được ứng dụng hiệu quả trong điều trị ho. Không chỉ làm dịu cơn ho, các vị thuốc này còn giúp tăng cường sức đề kháng và bảo vệ sức khỏe, đặc biệt khi thời tiết thay đổi thất thường, gây ảnh hưởng đến đường hô hấp.
Theo y học cổ truyền thì củ điền thất có vị đắng, tính bình, hơi the, có ông dụng điều hòa kinh nguyệt, thông kinh bế và tiêu sưng viêm, bổ huyết, làm tan máu ứ, có tác dụng tiêu hoá, nhuận tràng, lợi mật.
Theo Đông y, rau ngót có tính mát, vị ngọt, tác dụng thanh nhiệt, giải độc, bổ huyết, nhuận tràng. Rau ngót chứa lượng đạm thực vật cao, nên nên được khuyến khích sử dụng thay thế cho đạm động vật.