Tên khoa học của cây Ba chẽ là Dendrolobium triangulare (Retz.) Schinler, còn có các tên gọi khác như Niễng đực, Ván đất, Đậu bạc đầu, Tràng quả tam giác.
Tên khoa học của cây Ba chẽ là Dendrolobium triangulare (Retz.) Schinler, còn có các tên gọi khác như Niễng đực, Ván đất, Đậu bạc đầu, Tràng quả tam giác.
Cây thuộc vào họ Đậu (Fabaceae). Ba chẽ có vị ngọt, hơi đắng và tính ôn, không độc. Trên thực nghiệm, nó có tác dụng kháng khuẩn và chống viêm. Bài viết dưới đây sẽ cung cấp thông tin chi tiết về công dụng, cách sử dụng và liều lượng của cây Ba chẽ.
Ba chẽ là một loài cây bụi nhỏ, thường sống lâu năm, cao từ 0.5 đến 2 mét, có khi có chiều cao hơn. Thân cây tròn, phân nhiều cành. Cành non mảnh, hình tam giác dẹt, uốn lượn, có cạnh, bề mặt lõm nhẹ và có lông mềm màu trắng. Lá kép mọc xen kẽ, gốc gần tròn hoặc tù, đầu nhọn ngắn, mặt trên có lông mềm màu trắng, mặt dưới phủ một lớp lông tơ dày. Đặc biệt, lá non ở ngọn thường có nhiều lông tơ trắng hơn cả ở hai mặt.
Cây thân bụi, hoa mọc thành cụm
Cụm hoa của cây tụ lại thành chùm ngắn ở kẽ lá, mỗi chùm có nhiều lá bắc dạng lá kèm, có lông mềm. Hoa nhỏ, khoảng 10-20 hoa màu trắng. Đài hoa có lông mềm, chia thành 4 thùy, thùy dưới thường dài hơn ba thùy trên. Cánh hoa có móng hẹp; bó nhị hình chùm, bao phấn thuôn màu nâu.
Quả của cây là quả dạu, không có cuống, có mép lồi, thắt lại ở giữa các hạt thành 2-3 đốt, có lông mềm màu trắng bạc.
Lưu ý rằng cây Ba chẽ dễ bị nhầm lẫn với loài Niễng cái (hàm xì, đậu ma) thuộc cùng họ. Niễng cái là cây bụi nhỏ, lá chét có 3 gân chính hình cung xuất phát từ gốc lá, hoa màu vàng nhạt mọc thành chùm dài, và quả đậu chứa 2 hạt.
Phân bố của cây Ba chẽ rộng khắp ở hầu hết các tỉnh miền núi và trung du, đôi khi có thể tới độ cao trên 1000 mét. Ngoài Việt Nam, cây cũng được tìm thấy ở nhiều nước khác thuộc khu vực nhiệt đới Nam Á và Đông Nam Á.
Lá của cây Ba chẽ được thu hái từ tháng 7 đến tháng 9, sau đó được sử dụng tươi hoặc phơi khô ở nhiệt độ không quá 50°C. Dược liệu này có thể được chế biến thành các dạng cao nước, cao khô, và viên nén.
Nghiên cứu cho thấy tác dụng kháng khuẩn của cây giảm dần theo thời gian khi bảo quản nguyên liệu.
Ngoài ra, rễ cây cũng được coi là một vị thuốc có tác dụng làm mạnh gân cốt.
Lá được dùng làm dược liệu
Cây Ba chẽ chứa nhiều thành phần hóa học quan trọng như tanin, flavonoid, acid hữu cơ và alkaloid. Tanin có vai trò trong tính chất chống oxy hóa và kháng viêm của cây, trong khi flavonoid thường có tác dụng kháng khuẩn và chống oxy hóa. Acid hữu cơ thường góp phần vào tính chất sinh học của cây, trong khi alkaloid có thể có các tác dụng sinh học đa dạng như giảm đau và tác dụng lên hệ thần kinh.
theo chia sẻ của PGS.TS Tạ Thị Tĩnh – giảng viên khoa Y học cổ truyền, Trường Đại học Lương Thế Vinh cho biết tác dụng dược lý của cây Ba chẽ rất đa dạng và có những điểm nổi bật như sau:
Đối với công dụng của cây Ba chẽ:
Lá cây giã nát đắp lên chỗ bị rắn cắn
Thuốc dạng viên, được sản xuất từ cao lá cây Ba chẽ, đã được phát triển với nhiều ứng dụng khác nhau, bao gồm:
Được nghiên cứu và sử dụng trong điều trị hiệu quả các bệnh tiêu chảy và lỵ trực khuẩn.
Viên Ba chẽ có tác dụng chữa trị các chứng bệnh như lỵ trực khuẩn, hội chứng lỵ và tiêu chảy ở người lớn và trẻ em. Quá trình điều trị thường khá nhanh chóng và hiệu quả. Đối với các bệnh nhân mắc tiêu chảy nặng và có triệu chứng rối loạn nước và điện giải, việc sử dụng viên Ba chẽ cần phối hợp với truyền dịch để bù nước và điện giải cho cơ thể.
Liều dùng thông thường là ngày uống 10-15 viên, chia thành 2-3 lần sau khi ăn (mỗi viên chứa 0,25g cao khô lá Ba chẽ). Sau khi bệnh khỏi, cần giảm liều dần và ngưng thuốc. Trường hợp sử dụng lâu dài có thể gây ra táo bón.
Nguồn: Trường Cao đẳng Y dược Pasteur