Trong kho tàng Y học cổ truyền, có nhiều phương thuốc kinh điển được lưu truyền và ứng dụng đến ngày nay. Một trong số đó là Tê giác địa hoàng thang, bài thuốc nổi bật với công năng lương huyết, giải độc, thanh tâm, tán ứ.
Trong kho tàng Y học cổ truyền, có nhiều phương thuốc kinh điển được lưu truyền và ứng dụng đến ngày nay. Một trong số đó là Tê giác địa hoàng thang, bài thuốc nổi bật với công năng lương huyết, giải độc, thanh tâm, tán ứ.
Tê giác địa hoàng thang là cơ sở để nhiều phương thang khác biến hóa, phục vụ cho việc điều trị các chứng bệnh do huyết nhiệt và độc tà gây ra.
Tê giác: 1 – 4g
Sinh địa: 12 – 40g
Xích thược (Thược dược): 8 – 12g
Đan bì: 8 – 16g
Cách dùng: Ngày 1 thang, sắc uống chia 2 lần.
Theo y thư cổ, Tê giác địa hoàng thang có tác dụng thanh nhiệt giải độc, lương huyết tán ứ, thanh tâm. Bài thuốc thường được chỉ định khi:
Nhiệt nhập dinh huyết, sốt cao kéo dài, mê man.
Huyết nhiệt sinh chứng xuất huyết: thổ huyết, chảy máu cam, đại tiện ra máu.
Ban chẩn, mày đay, lưỡi đỏ, mạch tế sác.
Trong lâm sàng hiện đại, Bác sĩ Y học cổ truyền thường ứng dụng bài thuốc này để điều trị:
Viêm gan cấp tính vàng da, hôn mê gan.
Chứng xuất huyết do huyết nhiệt, đi tiểu ra máu.
Nhiễm trùng huyết, u nhọt độc kèm dịch vàng.
Điều đó cho thấy giá trị bền vững của bài thuốc, vừa phù hợp nguyên lý Y học cổ truyền, vừa có tính ứng dụng trong thực tiễn điều trị ngày nay.
Hiệu quả của Tê giác địa hoàng thang đến từ sự kết hợp hài hòa:
Tê giác: thanh tâm, lương huyết, giải độc, trấn tĩnh thần trí. Do tính quý hiếm, ngày nay thường được thay thế bằng Ngưu hoàng hoặc sừng trâu.
Sinh địa: thanh nhiệt, dưỡng âm, lương huyết, cầm huyết.
Xích thược, Đan bì: giúp lương huyết tiết nhiệt, đồng thời hoạt huyết tán ứ, ngăn tình trạng huyết ứ nội sinh.
Chỉ với 4 vị thuốc nhưng bài thuốc đã đủ sức thanh nhiệt, giải độc, lương huyết, chỉ huyết mà vẫn bảo tồn âm dịch – điều mà các Bác sĩ Y học cổ truyền luôn chú trọng khi điều trị.
Nếu nhiệt nhập tâm bào, tâm thần hôn mê: phối hợp với Tử huyết đan, Thạch xương bồ tươi, Thiền trúc hoàng.
Trường hợp kinh quyết, thần trí rối loạn nặng: dùng chung An cung ngưu hoàng hoàn hoặc Ngọc đan.
Khi sốt cao nhưng mê ít: gia thêm Ngân hoa, Liên kiều, Hoàng liên, Hoàng cầm, Đại thanh diệp, Tử thảo để tăng tác dụng thanh nhiệt giải độc.
Trong chương trình đào tạo ngành Bác sĩ Y học cổ truyền tại Trường Đại học Lương Thế Vinh, Tê giác địa hoàng thang luôn được giảng dạy như một bài thuốc mẫu mực về phương pháp lương huyết giải độc. Không chỉ giúp sinh viên hiểu sâu về lý luận “nhiệt nhập dinh huyết”, bài thuốc còn là ví dụ điển hình cho nguyên tắc phối ngũ “ít vị mà hiệu quả lớn”.
Trên thực tế, nhiều Bác sĩ Y học cổ truyền ngày nay vẫn vận dụng linh hoạt bài thuốc, gia giảm phù hợp với từng chứng bệnh hiện đại. Nhờ đó, giá trị của Y học cổ truyền không chỉ dừng lại ở y văn cổ điển, mà còn phát huy vai trò trong hệ thống y tế hiện đại, song hành cùng y học phương Tây.
Có thể khẳng định, Tê giác địa hoàng thang không chỉ là bài thuốc kinh điển trong lịch sử Y học cổ truyền, mà còn là minh chứng cho sự giao thoa giữa lý luận cổ và thực tiễn lâm sàng hiện đại. Đây là một trong những phương thuốc tiêu biểu, góp phần khẳng định vị thế của ngành Y học cổ truyền trong chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cộng đồng.