Binh lang thường được dùng trong Đông y để chữa trị nhiều loại bệnh, đặc biệt là các vấn đề về tiêu hóa như ăn không tiêu, bụng đầy trướng và nhiễm giun sán với hiệu quả cao.
Binh lang thường được dùng trong Đông y để chữa trị nhiều loại bệnh, đặc biệt là các vấn đề về tiêu hóa như ăn không tiêu, bụng đầy trướng và nhiễm giun sán với hiệu quả cao.
Hãy cùng Giảng viên trường Cao đẳng y Dược Pasteur khám phá trong bài viết dưới đây.
Cây cau được trồng phổ biến ở nước ta
Binh lang thuộc họ Cau dừa (Palmae/Arecaceae) và là hạt của quả Cau, được thu hoạch sau khi quả đã phơi khô từ cây Cau. Binh lang xuất hiện dưới hai dạng: Cau rừng (Sơn binh lang) và Cau nhà (Gia binh lang), với hạt của Cau rừng thường cứng và nhỏ hơn so với Cau nhà.
Cau được trồng phổ biến ở nhiều vùng đất, đặc biệt là ở vùng trung du và đồng bằng như Hải Phòng, Quảng Ninh, Hà Nam, Thái Bình, Tiền Giang, Cần Thơ, Bến Tre...
Có hai giống chính của cây Cau: Cau rừng (Sơn binh lang) có hạt nhỏ, nhọn và chắc, trong khi Cau vườn (Gia binh lang) thì có hạt lớn, hình nón cụt. Quá trình thu hoạch thường diễn ra vào mùa thu, từ tháng 9 đến tháng 12, khi quả đã chín thật sự (có kích thước lớn, màu xanh đậm và hạt cứng đã chuyển sang màu nâu nhạt). Sau đó, quả được róc bỏ vỏ ngoài và vỏ già, để lộ ra nguyên hạt bên trong, sau đó được phơi sấy cho đến khi khô hoàn toàn.
Binh lang là hạt cau
Cây Cau có thân lớn, mọc thẳng với chiều cao khoảng 15-20 mét và đường kính 10-15 cm. Thân cây có hình dạng trụ, rỗng bên trong và có nhiều vết tích từ việc lá rụng, với một chùm lá rộng lớn ở phía đỉnh. Gốc thân phình to ra và mang nhiều rễ nổi trên mặt đất.
Lá của cây có hình dạng lược dừa, với các bẹ to chứa 2 dãy lá chét được xếp đều và có dạng như lông chim. Hoa của cây thường rụng sớm, được bao phủ bởi các cụm hoa. Trong cụm hoa, hoa đực được đặt ở phía trên và hoa cái ở phía dưới. Hoa đực nhỏ có màu trắng, mỗi bông bao gồm 3 lá đài màu lục, 3 cánh hoa trắng và 6 nhị. Trái lớn, hình trứng, có vỏ mỏng bên ngoài, mịn và sáng bóng, khi chín có màu vàng đỏ. Bên trong, vỏ quả có cấu trúc cứng và nhiều sợi. Hạt có hình dạng cuốn xoắn, hơi như hình nón cụt, màu nâu nhạt và có vị chát.
Cây thường ra hoa vào tháng 5 và mang quả vào tháng 10.
Một số phương pháp chế biến Binh lang:
Theo TS Bùi Duy Hưng – giảng viên khoa Y học cổ truyền Trường Đại học Lương Thế Vinh Thu hoạch quả Cau khi đã chín, loại bỏ vỏ và lấy hạt để phơi khô hoàn toàn. Trước khi sử dụng, ngâm hạt khô trong nước từ 2 đến 3 ngày để làm mềm. Mỗi ngày thay nước 1 lần và tránh sử dụng dụng cụ làm từ sắt do hạt chứa chất tanin. Sau khi ngâm, vớt hạt ra để ráo nước, sau đó thái mỏng và phơi hoặc sấy khô.
Bình lang cũng có thể được đập vụn to như hạt đậu sau khi đã lựa chọn.
Sau khi chế biến:
Bảo quản:
Vị thuốc dễ bị mốc và mọt, vì vậy cần phải bảo quản ở nơi khô ráo và thoáng mát. Nếu phát hiện mốc, cần sấy diệt mốc để tránh hỏng hóc.
Trong thành phần của vị thuốc Binh lang, bao gồm:
Binh lang trị giun sán hiệu quả
Tuỳ thuộc vào mục đích sử dụng và bài thuốc cụ thể, có thể áp dụng nhiều phương pháp khác nhau để sử dụng dược liệu. Thảo dược Binh lang thường được sử dụng dưới dạng thuốc sắc, bột hoặc dạng hoàn tán, với liều lượng thường từ 6 đến 15 gram.
Trong trường hợp sử dụng cho mục đích trị nhiễm sán lá, liều lượng có thể tăng lên đến 60 đến 100 gram mỗi ngày. Ngoài ra, hạt Cau cũng có thể được sử dụng để nấu nước ngâm rửa ngoài da