Trong y học dân gian nhân trần tía được sử dụng với khả năng chữa trị một số bệnh như cảm cúm, viêm gan, bại liệt, thấp khớp, đau dạ dày và hỗ trợ phụ nữ sau khi sinh.
Trong y học dân gian nhân trần tía được sử dụng với khả năng chữa trị một số bệnh như cảm cúm, viêm gan, bại liệt, thấp khớp, đau dạ dày và hỗ trợ phụ nữ sau khi sinh.
Nhân trần tía, được biết đến với các tên gọi như Nhân trần Tây Ninh, Nhân trần tía, Nhân trần cái hay Chè cát, mang tên khoa học là Adenosma bracteosum Bonati và thuộc họ Scrophulariaceae (Hoa móm chó). Cây này có nhiều ứng dụng trong y học dân gian với khả năng chữa trị một số bệnh như cảm cúm, viêm gan (cả cây sắc uống), bại liệt, thấp khớp, đau dạ dày và hỗ trợ phụ nữ sau khi sinh.
Nhân trần tía là loại cây thảo, cao khoảng 30 - 40cm. Thân cây hình trụ, phân cành từ gốc, phần ngọn có 4 cánh. Cành có thể mọc toả ngang hoặc đứng thẳng. Lá mọc đối, hình mác thuôn, dài khoảng 2cm, rộng 7mm, không có cuống, gốc gần như ôm thân, lá nguyên hoặc có răng cưa tròn, gân lá rõ. Hoa mọc ở đầu cành thành bông dày đặc, dài từ 1,5 - 3cm, bao gồm các lá bắc dạng lá, hình tim, đầu nhọn, mép nguyên, có lông thô dạng mi; đài có 5 răng không đều, 3 răng ngoài rộng, 2 răng trong hẹp; tràng có ống hình trụ chia hai môi, môi trên bằng đầu, chia đôi, môi dưới dài bằng môi trên chia 3 thùy gần bằng nhau; nhị có 1 ô; bầu nhẵn. Quả nang, hình trứng thuôn, thắt lại ở đầu, nằm gọn trong đài tồn tại. Cây thường ra hoa từ tháng 5 đến tháng 9.
Trong số 3 loài thuộc chi Adenosma R. Br. được sử dụng làm thuốc ở Việt Nam, loài nhân trần tía có phạm vi phân bố hạn chế. Nhân trần tía thích ánh sáng và độ ẩm, có thể chịu được khô hạn sau khi đã ra hoa và kết quả. Thường mọc thành đám trên những bãi đất bằng dưới chân đồi, trong thung lũng hoặc những đám ruộng cao mới bỏ hoang. Đất mà nhân trần tía thích phát triển thường là đất pha cát và hơi chua.
Thành phần hóa học: Toàn cây nhân trần tía chứa tinh dầu màu vàng với hàm lượng khoảng 0,25%. Có chứa các thành phần như cineol, carvacrol, flavonoid, polyphenol và coumarin.
Bộ phận dùng: Tiến sĩ Nguyễn Hữu Bản – giảng viên khoa y học cổ truyền, Trường Đại học Lương Thế Vinh chia sẻ bộ phận dùng là toàn cây, trừ rễ, được thu hái khi cây đang ra hoa, sau đó được phơi hoặc sấy khô.
Tác dụng dược lý:
• Tăng tiết mật: Dịch chiết từ nhân trần tía có khả năng tăng tiết mật khoảng 24,7% so với nhóm kiểm soát.
• Kháng khuẩn: Carvacrol trong tinh dầu nhân trần tía có tác dụng kháng khuẩn mạnh.
• Độc tính cấp: Toàn cây nhân trần tía không gây tử vong cho chuột nhắt trắng ở liều dược liệu khô 300g/kg.
• Thử lâm sàng chữa viêm gan virus và xơ gan cổ trướng: Nhiều bệnh viện đã sử dụng nhân trần tía để chữa trị với kết quả tích cực.
Tính vị, công năng: trong đông y nhân trần tía có vị cay, hơi đắng, mùi thơm hắc, tính ấm. Có tác dụng thanh nhiệt, lợi tiểu, lợi mật, kích thích tiêu hóa.
Công dụng: Toàn cây nhân trần tía được sử dụng để chữa viêm gan, vàng da, tiêu hóa kém, sốt, cảm cúm, và ngộ độc. Từ năm 1977, một số bệnh viện ở Việt Nam đã sử dụng nhân trần tía trong việc chữa trị viêm gan virus và xơ gan, với hiệu quả khả quan.
Nhân trần tía, với những ứng dụng đa dạng trong y học dân gian, đang trở thành một trong những cây cỏ quý giá được quan tâm và sử dụng rộng rãi trong điều trị các bệnh lý khác nhau.