Cà dại hoa vàng, được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau như cà gai cua, cây mùi cua, cây gai ma, cây cà gai, cây lão thử lặc
Cà dại hoa vàng, được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau như cà gai cua, cây mùi cua, cây gai ma, cây cà gai, cây lão thử lặc
Là một loại thảo dược được y học cổ truyền sử dụng tại một số quốc gia như Ấn Độ và Nepal để chữa trị bệnh. Toàn cây cà dại hoa vàng chứa các hoạt chất có khả năng sát khuẩn, làm dịu đường ruột và chống lại sự phát triển của nấm.
Cà dại hoa vàng thuộc họ thuốc phiện (Papaveraceae)
Theo giang viên bộ môn Dược liệu Trường Cao đẳng Y dược Pasteur cây cà dại hoa vàng là một loài cây thân thảo nhỏ, thân cây với chiều cao trung bình dao động từ 0,3 đến 0,5 mét khi đạt đến tuổi trưởng thành. Thân cây tròn, nhẵn, có màu xám lục, và phân nhánh, trên bề mặt ngoài có nhiều gai nhọn.
Cây cà dại hoa vàng có lá mọc xen kẽ hai bên thân hoặc trên cành. Chúng có hình dạng xẻ thùy sâu, với đầu thùy nhọn giống như gai, không có cuống. Phần gốc lá được bẹ ôm chặt vào thân cây, với các gân lá màu trắng phía dưới.
Cây thường bắt đầu ra hoa vào khoảng tháng 3 và kéo dài cho đến tháng 5. Hoa của cây có màu vàng tươi, nở đơn độc ở đầu cành. Mỗi bông hoa bao gồm 6 cánh mỏng, với 3 lá đài, và bên trong có nhiều chỉ nhị ngắn, màu đỏ ở đầu nhụy.
Cà dại hoa vàng có quả dạng nang, được bao bọc bởi những gai dài xung quanh. Bên trong, quả chứa hạt màu đen, tròn và hơi phẳng. Khi chín, quả tự mở ra và tung hạt xuống đất, nơi chúng sau đó nảy mầm và phát triển thành cây trong năm tiếp theo.
Cây cà dại hoa vàng được tìm thấy chủ yếu ở các quốc gia thuộc châu Mỹ với khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới. Ngoài ra, loài cây này cũng được tìm thấy ở một số quốc gia khác như Mexico và Việt Nam.
Ở Việt Nam, cây thường mọc đặc trưng ở các khu vực trống trải dài hai bên con đường, ven sườn đồi hoặc dọc theo các con đê. Phương pháp sinh sản chính của loài cây này là qua hạt, và chúng phát triển mạnh mẽ nhất ở những nơi có độ ẩm cao và ánh sáng đủ. Cây thường xuất hiện nhiều ở các tỉnh đồng bằng và khu vực trung du miền Bắc Việt Nam, trong khi ở miền Trung, sự phân bố của chúng ít hơn.
Tất cả các bộ phận như rễ, thân, lá, quả, hạt của cây cà dại hoa vàng đều chứa các hoạt chất có giá trị được sử dụng cho mục đích y học. Các bộ phận này được thu hái quanh năm, sau khi thu hái, tất cả sẽ được rửa sạch và có thể sử dụng tươi hoặc phơi khô dưới ánh nắng. Dược liệu khô thường được đóng gói trong bao bì kín hoặc bảo quản trong hũ đậy kín để tránh độ ẩm.
Toàn bộ cây cà dại hoa vàng chứa các thành phần hóa học được sử dụng trong điều trị như: Berberin, Alcaloid alocryptopin, Nor-chelerithrin, Norsanguinarin, Cryptopin, Coptisin, Protopin, tinh dầu và các axit béo: oleic, linoleic,…
Cà dại hoa vàng điều trị giảm sốt (ở Nepal)
Đối với hệ hô hấp: Một số nghiên cứu trên động vật thí nghiệm đã chỉ ra rằng cao chiết xuất từ cây cà dại hoa vàng có thể ảnh hưởng đến hệ thống hô hấp.
Tác dụng kháng khuẩn: Chiết xuất từ cây dại hoa vàng có khả năng ức chế hoạt động của siêu vi khuẩn Ranikhet.
Đối với hệ sinh dục: Các nghiên cứu trên chó đực đã chứng minh rằng alcaloid isoquinolin, một thành phần chiết xuất từ hạt cà dại hoa vàng, có thể ức chế quá trình sinh tinh trùng, làm giảm số lượng tiền tinh trùng ở chó sau 60 ngày sử dụng liều lượng 30 mg/kg/ngày.
Tác dụng diệt nấm: Cây cà dại hoa vàng cũng có khả năng tiêu diệt một số chủng nấm phát triển trong hạt của một loại đậu.
Trong y học cổ truyền Ấn Độ: Cây cà dại hoa vàng được sử dụng để điều trị một số bệnh lý sau đây:
Bệnh lý về mắt, bệnh da mãn tính, vàng da, phù, táo bón, rắn độc cắn, bệnh lậu.
Tại Nepal: Rễ cây cà dại hoa vàng được dùng để giảm sốt, nhựa cây được sử dụng để điều trị bệnh đục thủy tinh thể, làm sạch vết thương ngoài da, quả xanh được sử dụng để chữa trị bỏng và hạt được dùng để điều trị bệnh eczema.
Ở Haiti: Phần lá của cây cà dại hoa vàng được sử dụng để điều trị ho, cảm cúm.
Tại đảo Martinique: Nhựa cây cà dại hoa vàng được sử dụng để chữa trị các bệnh như ngoài da, chai chân, mụn cơm.
Liều lượng của cây cà dại hoa vàng được điều chỉnh phù hợp với từng loại bệnh. Dược liệu có thể được sử dụng theo các phương thức như: bôi, đắp lên da, sắc uống hoặc có thể tán bột để uống.
Chữa viêm nhiễm ngoài da: Sử dụng dầu chiết tách từ hạt gai cua bôi trực tiếp lên vùng da bị viêm nhiễm.
Chữa vàng da, phù: Giã nát thân cây, lấy phần nhựa mủ màu vàng bôi lên vùng da bị vàng và phù.
Điều trị bệnh lậu: Sắc 250g rễ khô của cây càng cua với 2 lít nước cho cạn còn 1 lít. Mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần từ 10 - 15ml. Phụ nữ bị bệnh lậu có thể kết hợp sử dụng dung dịch nước cốt lá cây gai cua tươi và dịch ép từ lá Aristolochia với tỷ lệ 1:1 để bôi vào âm đạo.
Giải độc do rắn cắn: Dùng nước uống hoặc bã cây gai cua bôi lên vùng bị cắn. Hoặc sử dụng bột từ cây gai cua, mỗi ngày uống 10g, pha với nước đun sôi để nguội trước khi đi ngủ trong 3 ngày liên tiếp.
Giảm sốt: Người trưởng thành uống 15g rễ cây gai cua sắc mỗi lần, ngày 2 lần. Trẻ em dưới 15 tuổi uống liều nửa người lớn.
Chữa bệnh đục thủy tinh thể: Sử dụng nhựa từ thân cây để nhỏ vào mắt mỗi ngày 1 - 2 lần.
Chữa vết đứt, tổn thương hở ngoài da: Bôi nhựa cây lên vùng tổn thương để sát trùng.
Trị bỏng: Giã nát quả xanh và đắp lên vùng bị bỏng.
Điều trị bệnh eczema: Giã nát hạt cây gai cua và trộn với một ít mù tạt, sau đó bôi lên da.
Chữa ho, cảm cúm: Sắc nước từ lá cây để uống để giảm hoặc cải thiện các triệu chứng của cảm cúm.
Trị chai chân, mụn cơm: Bôi nhựa từ cây gai cua lên vùng da cần điều trị.đường uống mà không được chỉ định cụ thể.
Cây cà dại hoa vàng có chứa các chất độc hại. Do đó, bệnh nhân không nên sử dụng dược liệu này một cách tùy tiện, đặc biệt là qua đường uống. Vì thế, bạn cần có sự tư vấn từ các bác sĩ y học cổ truyền để có thể sử dụng dược liệu một cách hiệu quả và an toàn cho sức khỏe.