Cây Gáo có nhiều tên gọi khác nhau như Gáo vàng, Huỳnh bá, Gáo nam... Cây mang tên khoa học: Sarcocephalus coadunatus Druce, thuộc họ Cà phê - Rubiaceae. Vỏ cây Gáo được người dân dùng làm thuốc chữa sốt dưới dạng thuốc sắc.
Cây Gáo có nhiều tên gọi khác nhau như Gáo vàng, Huỳnh bá, Gáo nam... Cây mang tên khoa học: Sarcocephalus coadunatus Druce, thuộc họ Cà phê - Rubiaceae. Vỏ cây Gáo được người dân dùng làm thuốc chữa sốt dưới dạng thuốc sắc.
Cây Gáo có kích thước lớn, thường cao từ 15 đến 20m. Cành cây phát triển ngang, với cành non có màu nâu sậm và cành già màu xám, nhẵn. Gỗ của cây có màu vàng. Lá cây mọc đối, hình trái xoan, gốc tròn hoặc hình tim, đầu tù, có 2 mặt nhẵn. Mặt trên của lá màu lục bóng, trong khi mặt dưới có màu nâu nhạt. Cuống lá có khía rãnh, và lá kèm ở đầu có dạng tù.
Gáo là loài cây thân gỗ có kích thước lớn
Cụm hoa của cây nảy mọc ở đầu cành thành dạng đầu tròn, hoa thường có màu vàng hoặc trắng vàng và có mùi thơm dễ chịu. Quả của cây dính lại với nhau tạo thành khối hình cầu, mỗi quả chứa 2 ô, mỗi ô chứa từ 5 đến 8 hạt.
Cây thường ra hoa vào mùa từ tháng 3 đến tháng 5 và ra quả từ tháng 6 đến tháng 8.
Họ Sarcocephalus Afz. có ba loài được ghi nhận tại Việt Nam. Gáo, một trong những loài cây gỗ, phân bố chủ yếu ở khu vực nhiệt đới Nam Á và Đông Nam Á, bao gồm các quốc gia như Ấn Độ, Indonesia, Sri Lanka, Thái Lan, Campuchia, Lào và Việt Nam. Ở nước ta, cây này phân bố rải rác tại các tỉnh thuộc vùng núi thấp (dưới 600m) và trung du, đôi khi còn thấy ở vùng đồng bằng do việc trồng hoặc được chim đưa hạt giống.
Cây thích ánh sáng, thường mọc ven rừng thứ sinh hoặc tại các bờ ruộng, thích nghi với nhiều loại đất có độ pH trung tính và tầng đất dày. Gáo có tốc độ sinh trưởng nhanh, trong vòng 5 năm đầu tiên, chiều cao có thể tăng từ 1 đến 1,5m mỗi năm. Sau khoảng 6 - 7 năm, cây bắt đầu ra hoa quả.
Hoa gáo mang mùi thơm dễ chịu
Quả chín của cây là thức ăn cho một số loài chim lớn nhưng nếu rụng xuống đất thường sẽ nhanh chóng bị thối. Gáo thường tự gieo giống tự nhiên chủ yếu là bằng gieo hạt, nếu bị chặt hoặc gãy, cây có thể được tái sinh từ chồi.
Gỗ của cây Gáo có màu vàng, dễ chế biến, thường được sử dụng để làm thùng, ván thuyền nhưng không có độ bền cao.
Bộ phận chủ yếu được sử dụng của cây là vỏ và gỗ. Sau khi thu hoạch, vỏ thường được chẻ nhỏ và phơi khô hoặc sấy khô.
Vỏ cây được sử dụng làm dược liệu
Cây Gáo chứa các thành phần như triterpene glycoside gồm naucleosid và noreugenin.
Trong lá, có sự hiện diện của các alkaloid như 10 hydroxy strictosamid, 6’ O acetyl strictosamid, và vincosamid. Ngoài ra, lá cũng chứa β-sitosterol và axit palmitic.
Cả vỏ, lá và gỗ đều chứa các chất đắng.
Theo TS Bùi Duy Hưng – giảng viên khoa Y học cổ truyền Trường Đại học Lương Thế Vinh Vỏ thân của cây Gáo được biết đến với tác dụng làm giảm nhiệt và bổ dưỡng.
Nhân dân sử dụng vỏ cây Gáo để chữa sốt dưới dạng thuốc sắc, với liều lượng thường từ 10 đến 16 gram. Gỗ Gáo cũng có thể được sử dụng như vỏ cây bằng cách thái mỏng và sắc như vỏ cây.
Ngoài ra, cây Gáo được sử dụng trong nhiều bài thuốc truyền thống khác nhau:
Phương pháp trị xơ gan cổ trướng:
Dùng sắc uống trong ngày, liều lượng này được duy trì trong khoảng 10 - 15 ngày.
Phương pháp trị cảm sốt:
Dùng 10 - 16g vỏ cây Gáo. Rửa sạch và đặt vào nồi ấm, sau đó sắc và uống.