Cây Vòi voi là một loại cây cỏ phổ biến ở khắp nơi trên lãnh thổ Việt Nam, đồng thời được rộng rãi ứng dụng trong y học của nhiều quốc gia.
Cây Vòi voi là một loại cây cỏ phổ biến ở khắp nơi trên lãnh thổ Việt Nam, đồng thời được rộng rãi ứng dụng trong y học của nhiều quốc gia.
Hôm nay hãy cùng Trường Cao đẳng y dược Pasteur tìm hiểu về chủ đề này nhé!
Tuy nhiên, đây là một cây có độc tính và có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng đối với sức khỏe của con người nếu sử dụng không đúng cách.
Cây Vòi voi còn được biết đến với nhiều tên gọi khác như Dền voi, Cẩu vĩ trùng, Đại vĩ đao hay Nam độc hoạt. Theo tên khoa học, cây có tên gọi: Heliotropium indicum L., thuộc họ Vòi voi Boraginaceae.
Cây Vòi voi thân cỏ, lá hình trứng, mép lá có răng cưa
Đây là một loại cỏ cao khoảng từ 25 đến 40cm, có thân khô cứng, phân nhánh nhiều. Thân cây được phủ lên bởi lông nhám mạnh mẽ. Lá hình trứng dài, mặt trên và mặt dưới đều có lông, mép lá có răng cưa không đều.
Hoa của cây có màu tím hoặc trắng, mọc thành các cụm xếp liền nhau, tạo nên hình dạng giống như vòi của con voi, từ đó được gọi là Vòi voi. Quả của cây gồm 4 hạch nhỏ, khi chín sẽ tách ra.
Nguồn gốc của cây Vòi voi là từ vùng nhiệt đới ở châu Mỹ. Ngày nay, nó thường mọc hoang rất phổ biến ở các nước nhiệt đới, như Việt Nam, Philippines, Indonesia,... Ở Việt Nam, cây có thể được tìm thấy ở hầu hết các tỉnh trừ vùng núi cao. Đây là một loại cây ưa sáng, thường mọc trên các bãi đất ẩm, nương rẫy, vườn, hoặc đất bỏ hoang.
Cây thường mọc từ hạt vào khoảng tháng 4 - 5, và sinh trưởng mạnh mẽ trong mùa hè. Hoa và quả nở rộ và chín vào giữa mùa thu. Cây Vòi voi thường được thu hái quanh năm nhưng để đảm bảo được chất lượng tốt nhất người ta thường thu hoạch vào mùa hè và mùa thu. Toàn bộ sẽ được sử dụng ở dạng dùng tươi hoặc phơi khô.
Thành phần của cây Vòi voi bao gồm các hợp chất như indicin, acetylindicin, indicinin trong cành và lá, cũng như spermin, putrescin, homospermidin trong lá và cụm hoa.
Thường người ta sử dụng toàn bộ cây Vòi voi. Tuy nhiên, các alkaloid pyrrolizidin trong cây có tác dụng độc hại đối với động vật, gia súc và cả người. Một số trong số chúng có thể gây tổn thương đến gan, phổi và các cơ quan khác, đồng thời một số chất khác cũng có nguy cơ gây ung thư và độc tính đối với gan.
Khi được sử dụng bôi trên vết thương, cao từ cây Vòi voi có thể giúp trong quá trình tái tạo và làm lành vết thương cũng như giảm viêm.
Theo TS Tạ Thị Tĩnh – giảng viên khoa Y học cổ truyền Trường Đại học Lương Thế Vinh cho biết cây Vòi voi có vị đắng và cay nhẹ, cây mang một mùi đặc trưng hăng hăng và có tính mát. Vòi voi được biết đến với các tác dụng như thông huyết, giúp giảm phong thấp, làm mát cơ thể và giảm viêm. Các tác dụng này thường được sử dụng để điều trị các triệu chứng đau nhức xương khớp.
Cây Vòi voi thường được sử dụng trong y học dân gian để chữa trị các bệnh như phong thấp, viêm khớp, đau lưng, mỏi gối, viêm họng, sưng tấy và nhiều triệu chứng khác. Liều lượng thường được khuyến cáo là từ 15 đến 30 gram mỗi ngày, thường dưới dạng thuốc sắc.
Tên gọi Vòi voi bắt nguồn từ hình dạng cụm hoa
Tuy nhiên do cây có độc tính đối với gan nên việc sử dụng uống nên được hạn chế trong điều trị bệnh. Đối với phụ nữ mang thai, việc sử dụng có thể gây ra nguy cơ sảy thai.
Khi sử dụng ngoài da, người ta thường sử dụng cành lá hoa tươi, giã nhỏ và chưng với giấm, sau đó đắp lên da để điều trị mụn nhọt, viêm hạch, bong gân hoặc tụ máu.
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng các hoạt chất có trong cây như Helindicin, lycopsamine, có khả năng chống viêm và chống oxi hóa.
Một nghiên cứu trên chuột mắc viêm loét dạ dày đã cho thấy rằng chiết xuất nước từ lá của cây có tác dụng bảo vệ dạ dày và ruột, giúp lành các tổn thương từ viêm và loét. Tác dụng này có thể được đóng góp bởi các thành phần như tanin, alkaloid và saponin.
Để chứng minh tác dụng làm lành vết thương của cây, các nhà nghiên cứu đã tiến hành thí nghiệm trên chuột để tạo vết thương trên da. Kết quả cho thấy chiết xuất từ cây Vòi voi không chỉ có tác dụng chống viêm mà còn thúc đẩy sự tái tạo mô hạt và nhanh chóng lành vết thương, thậm chí cả vết thương đã bị nhiễm trùng.
Từ tính chất độc hại của cây, nghiên cứu đã chỉ ra rằng chiết xuất từ nó có khả năng tiêu diệt ấu trùng của các loài muỗi như Anopheles stephensi, Aedes aegypti và Culex quinquefasciatus. Đây là các loài muỗi gây ra nhiều bệnh nguy hiểm như sốt rét và sốt xuất huyết. Kết quả này chỉ ra rằng cây Vòi voi có tiềm năng để được sử dụng như một phương pháp kiểm soát muỗi gây bệnh một cách thân thiện với môi trường.
Một số loài của cây vòi voi như H.lariocarpum Fish et Mey, chứa các hợp chất alkaloid có nhân pyrrolizidin, có tính độc mạnh đối với gan và gây tổn thương cho cấu trúc của gan, đồng thời có thể gây ra các triệu chứng như đau bụng, tiêu chảy, xuất huyết lan tỏa và có nguy cơ gây ra ung thư. Tính độc này thường khó phát hiện vì không có phản ứng ngay sau khi sử dụng mà thường xuất hiện một cách âm ỉ và kéo dài.
Do đó, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến nghị không nên sử dụng vòi voi làm thuốc. Ở Việt Nam, Bộ Y tế (1985) cũng đã đưa ra cảnh báo cần thận trọng khi sử dụng vòi voi trong điều trị bệnh, thậm chí chỉ dùng ngoài da cho các trường hợp như tụ máu bầm tím do chấn thương, viêm tấy áp-xe, sưng vù, sưng khớp, đinh nhọt giai đoạn chưa nứt mủ. Khi có bất kỳ biểu hiện bất thường nào, cần ngừng sử dụng ngay. Đặc biệt cần lưu ý không sử dụng cho người già yếu.
Để tránh những tác dụng không mong muốn, tốt nhất là người bệnh không nên tự ý sử dụng các bài thuốc chứa vòi voi tại nhà trước khi được chỉ định bởi các chuyên gia y tế có kinh nghiệm trong Y học cổ truyền.
Vòi voi là một loại cây cỏ hoang thường gặp và trong y học dân gian, nó thường được sử dụng để điều trị các vấn đề như đau xương khớp và các bệnh lý da liễu. Mặc dù một số nghiên cứu gần đây đã phần nào chứng minh các tác dụng này, nhưng vẫn cần cân nhắc về nguy cơ của cây thuốc này đối với gan và sức khỏe tổng thể.