Theo Đông y, nghể chàm có khí lạnh, vị đắng, không độc, vào các kinh tâm, can, tỳ, vị, thận. Nghể chàm có tính thanh nhiệt và giải độc rất tốt
Theo Đông y, nghể chàm có khí lạnh, vị đắng, không độc, vào các kinh tâm, can, tỳ, vị, thận. Nghể chàm có tính thanh nhiệt và giải độc rất tốt
Nghể chàm (Polygonum tinctorium Ait.), còn được biết đến với tên khoa học Persicaria tinctoria (Aft.) Spach hoặc Nghệ nhuộm, thuộc họ Rau răm (Polygonaceae), được sử dụng như một loại cây chàm để chế bột chàm hoặc thanh đại giống như các loại cây chàm khác. Toàn bộ cây có thể sắc uống để chữa thổ huyết, nôn mửa, điên cuồng, khát nước và cũng được dùng trong y học dân gian để chữa sốt, trúng độc và viêm amiđan.
Đây là loại cây thảo, sống trong nhiều năm. Thân của cây có thể phân cành ít hoặc nhiều, có khía, nhẵn, và gốc dày thường có màu sẫm. Các lá mọc so le, hình bầu dục hơi thuôn, có kích thước từ 5 đến 11 cm dài và 3 đến 4 cm rộng, với gốc có phiến men theo cuống. Lá có đầu nhọn thành mũi, nhẵn, và khi khô thường có màu lục lam nhạt. Bẹ của lá mỏng, phủ kín đến gần nửa độ dài của thân. Cụm hoa thường xuất hiện ở tận cùng hoặc ở kẽ lá, mang theo nhiều bông hình trụ, với lá bắc hình phễu, có một chút lông mi ở mép. Hoa có thể đơn độc hoặc tụ họp từ 2 đến 5 cái lá bắc. Quả thường có hình 3 cạnh hoặc hình thấu kính, có bề mặt nhẵn. Cây thường ra hoa và quả từ tháng 6 đến tháng 9.
Nghể chàm thường mọc tốt trong môi trường ẩm ướt và thích ánh sáng, mặc dù cũng có thể chịu chút bóng. Cây phát triển gần như quanh năm và có khả năng mọc chồi nhánh khá nhiều. Vì thế, trong tự nhiên, việc phân biệt cây nghể chàm từng định danh có thể khó khăn. Cây thường ra hoa và quả mỗi năm, và các nhánh đã có hoa quả có thể tạo ra các nhánh phụ và tiếp tục đâm chồi trong các năm tiếp theo.
Toàn bộ cây nghể chàm được dùng. Lá của cây chứa hợp chất indicant (indoxyl – β – O – glucosid)
Nghể chàm có tác dụng kháng khuẩn đối với tụ cầu khuẩn, phế cầu khuẩn và màng não cầu khuẩn. Nó cũng có tác dụng kháng virus đối với virus cúm. Cây có khả năng hạ nhiệt, chống viêm, lợi mật và tăng hoạt tính thực bào của bạch cầu. Nó có thể gây giãn cơ trơn ruột và co cơ tử cung.
Theo nghiên cứu dược động học, khi thỏ uống glycosid indican có trong nghể chàm, nồng độ tối đa của chất này trong huyết tương được đạt sau khoảng 3 giờ. Chất này được phân bố trong gan, thận, cơ vân và đường tiêu hóa. Liều uống được tiết ra 90% qua nước tiểu. Tác dụng phụ có thể là buồn nôn và nôn mửa.
Các hợp chất thơm chiết từ nghể chàm có thể ngăn chặn tác động của các dạng oxy đối với phản ứng viêm trong một số bệnh da như viêm da tiếp xúc dị ứng do các dị ứng nguyên hóa học.
Nghể chàm còn chứa trytanthrin, một chất có các hoạt tính sinh học như kháng nấm da và kháng khuẩn với mức độ vừa phải. Nó cũng có tác động diệt tế bào đối với các dòng tế bào khác nhau ngoại trừ các khối u ác tính. Tryptanthrin cũng có tác dụng ức chế mạnh cyclooxygenase – 2.
Theo Đông y, nghể chàm có tính thanh nhiệt và giải độc.
Cây nghể chàm thường được sử dụng để chế bột chàm hoặc thanh đại như các loại cây chàm khác. Toàn cây có thể sắc uống để chữa thổ huyết, nôn mửa, điên cuồng, khát nước. Cộng đồng dân tộc ở một số vùng sử dụng cây này làm thuốc gây sẩy thai.
• Bột chàm hoặc thanh đại thường được sử dụng phổ biến trong y học dân gian để chữa sốt, trúng độc, viêm amiđan, cam tẩu mã và viêm lợi chảy máu. Liều uống thông thường là từ 2 đến 6g mỗi ngày, và cũng có thể sử dụng ngoại tiêu.
• Vỏ của cây nghề chàm được dùng ngoại để trị mụn nhọt độc, rắn cắn, bò cạp và cả ong đốt.
• Hoa của cây có thể được chiết để sử dụng trong việc điều trị loét vòm miệng, viêm họng cấp, viêm amidan, viêm lợi và viêm niêm mạc miệng.
Ở Trung Quốc, nghể chàm được sử dụng làm thuốc hạ sốt, kháng khuẩn và kháng virus để điều trị các bệnh nhiễm khuẩn và nhiễm virus như nhiễm khuẩn đường hô hấp trên, viêm thanh quản, sởi, quai bị, viêm não, viêm gan, áp xe phổi, kiết lỵ, viêm dạ dày – ruột cấp tính, nhọt độc.
Chữa rắn cắn và côn trùng đốt: Rễ nghề chàm giã nát, trộn với xạ hương và hùng hoàng, dùng đắp.
Chữa viêm amidan, viêm họng: Thanh đại, hàn the, mỗi vị 5g, ngưu hoàng lg, băng phiến 0,5g. Tất cả tán nhỏ. Khi dùng, súc miệng sạch, bôi thuốc vào chỗ đau.
Chữa trẻ em sốt cao co giật, trợn mắt, hôn mê: Thanh đại hoà với nước, mỗi ngày uống 2 – 8g, chia làm nhiều lần.
Chữa viêm lợi chảy máu, lở miệng: Thanh đại, cùng với phèn chua, hoàng liên, đinh hương, dùng bôi.
Theo giảng viên Nguyễn Hương hiện đang công tác tại Trường Đại học Lương Thế Vinh chia sẻ việc sử dụng thuốc từ các loại cây cần được thực hiện dưới sự giám sát của người chuyên nghiệp để tránh các tác dụng phụ không mong muốn.